TS Quảng Đại Cẩn
Lời
Mở: Ba
ngày, 6-8 tháng 11 năm 2013, Hội thảo quốc tế lần thứ 4về ngôn ngữ và giáo dục:
Giáo dục đa ngữ cho mọi người, chính sách, thực tiển và tiến trình, tại Bangkok,
Thái Lan (Multilingual for all in Asia and the Pacific: Policies, practices,
and Proccessies). Sự kiện này đã đánh dấu một mốc mới trong việc phát triển
giáo dục và duy trì ngôn ngữ dân tộc bản địa/ thiểu số, đang có nguy cơ biến mất.
Hơn thế nữa, “… giáo dục song ngữ/ đa ngữ (GDSN/ ĐN) là rất quan trọng cho phát
triển ổn định và bền vững vùng châu Á Thái Bình Dương…” như nhấn mạnh của Phó
Thủ Tướng Thái Lan, Phongthep Thepkanjana trong diễn văn khai mạc. Căng thẳng ở
phía nam và tụt hậu phía bắc Thái Lan đang dần khắc phục và loại bỏ. Sau bảy
năm thí điểm, thấy rõ lợi ích từ giáo dục song ngữ chính phủ Thái đã cổ vũ mạnh
mẽ chương trình này. Chính phủ Campuchia, Philippine, Nepal, Burma, và
Afganistam… cũng bắt đầu có những bộ luật mở đường cho phát triển giáo dục song
ngữ/ đa ngữ. Mô hình giáo dục tam ngữ (tiếng mẹ đẻ, tiếng Hoa, và tiếng Anh)
đang được giới học giả Trung Quốc chú ý như là công cụ hữu hiệu phát triển giáo
dục và đất nước. Một mô hình phát triển bền vững được kiên trì áp dụng tại Singapore
từ thập niện 1960 đến ngày nay. Hiện nay nhiều nước đã tập trung phát triển
GDSN và xem đây là phương tiện để tăng cường an ninh quốc gia, phát triển và cạnh
tranh kinh tế.
Giáo dục song ngữ/ đa ngữ là làn gió mới cho sự phát
triển ổn định bền vững vùng Châu Á Thái Bình Dương. Vậy giáo dục song ngữ /đa
ngữ được định nghĩa thế nào trong thực tiển và thuật ngữ nghiên cứu? Giáo dục
đa ngữ, dùng tiếng mẹ đẻ làm cơ sở (Mother Tongue Based- Multilingual Education
/MTB-MLE) được đề cập trong Hội thảo quốc tế lần 4 tại Bangkok, Thái Lan về
ngôn ngữ và giáo dục và dạy tiếng mẹ đẻ như là một môn học tại Việt Nam có gì
khác nhau? Mục tiêu của bài viết này, mong giải đáp được những vướng mắc trên để
giáo dục song ngữ tại việt nam đi vào thực chất hơn và đáp ứng hơn nữa yêu cầu
phát triển giáo dục.
Định
nghĩa: GDSN/ ĐN bao gồm việc dạy các môn học trong nhà trường
bằng hai hay nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngôn ngữ giảng dạy bằng tiếng nước
ngoài, quốc ngữ, và các tiếng sắc tộc thiểu số/ bản địa với thời lượng nhất định,
trong những phân môn nhất định cấu thành mục đích, thể loại, và hình thức giáo
dục song ngữ/ đa ngữ. Khái niêm Giáo dục song ngữ/ tam ngữ/ đa ngữ được dùng rất
phổ biến hầu như toàn thế giới, trong các quốc gia đa ngữ. Tuy nhiên mỗi nước
có một cách hiểu và áp dụng trong hoàn cảnh cụ thể của mình với những mô hình
và tên gọi khác nhau. Cá biệt có nơi không xem là họ đang thực hiện giáo dục
song ngữ hay đa ngữ dù có hơn hai ngôn ngữ đang dạy trong trường (vì họ nhầm rằng
song ngữ hay đa ngữ là dạy hai hay nhiều thứ tiếng cùng một lúc trong một lớp học).
Mục
Đích: GDSN/ ĐN thường để giúp học sinh thiểu số/ bản địa
chuyển tiếp vào học chương trình chuẩn quốc gia hay/ và bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Mục
tiêu của gdsn có thể diễn giải chi tiết như sau: dung tiếng mẹ đẻ để dạy chương
trình chuẩn quốc gia, giúp học sinh chuyển tiếp vào chương trình chuẩn quốc gia
dễ dàng hơn; giúp học sinh di trú hội nhập vào xã hộ mới; học tiếng sắc tộc thiểu
số/ bản địa để bảo tồn di sản ngôn ngữ, văn hóa của cộng đồng thiểu số/ bản địa.
Thể
thức giáo dục song ngữ/ đa ngữ (form of bilingual/
multilingual education):
Căn cứ vào mục tiêu, mức độ, thời lượng (tỷ lệ giảng
dạy so với quốc ngữ) và độ dài của chương trình các nhà ngữ dụng học chia gdsn
thành các nhóm sau: giáo dục đơn ngữ (non-bilingual education form), gdsn yếu (weak
bilingual education form) và gdsn mạnh (strong bilingual education form).
Chương
trình giáo dục đơn ngữ: Đây là chương trình giáo dục của
nước Mỹ trước năm 1965, chỉ giảng dạy duy nhất tiếng Mỹ (American Enlish). Mục
đính thống nhất quốc gia, theo chủ trương quốc ngữ Anh duy nhất (Engish only).
Không có chương trình tiếng nước ngoài hay thiểu số nào được dạy trong nhà trường.
Nếu có học sinh thiểu số gặp khó khăn về ngôn ngữ, được học bổ túc chương trình
tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai hay ngoại ngữ (English as second or foreign
language). Từ thập niên 1970 đến nay, và nhất là sau sự kiện 9-11 năm 2001, nước
mỹ xem giáo dục song ngữ như là giải pháp cho an ninh quốc gia và tăng cường sức
cạnh tranh kinh tế. Nghĩa là thống nhất trong đa ngữ (English plus) thì tốt
hơn. Lúc cực thịnh, đầu thập niên 1980, có 6553 trường dạy chương trình song ngữ
với 145 tiếng mẹ đẻ khác nhau (Baker, 2011). Nay, có 343 chương trình giáo dục
song ngữ với trên 10 thứ tiếng được thực hiện tại Mỹ (center for applied
linguistics, 2009). Với xu thế toàn cầu hóa hiện nay có lẽ khó hoặc không tìm
thấy mô hình đơn ngữ này, vì ít nhất một ngoại ngữ được giảng dạy trong nhà trường.
Hầu hết các cá thể và cộng đồng xã hội đều là song ngữ, tam hay đa ngữ. Giáo dục
luôn hướng đến phục vụ, nuôi dưỡng sự phát triển giao tiếp của xã hội.
Chương
trình song ngữ yếu: Chương trình có mục đích chuyển tiếp học
sinh thiểu số sang quốc ngữ và giáo dục chuẩn chính khoá quốc gia. Với chương
trình này, tiếng thiểu số chỉ được học trong thời gian ngắn. Khi học sinh có thể
học được trong chương trình chuẩn quốc gia thì tiếng mẹ đẻ cũng hết vai trò. Do
đó tiếng mẹ đẻ có nguy cơ bị lãng quên và thay thế bởi quốc ngữ. Mục tiêu của
chương trình này là đồng hóa, và hội nhập các cộng đồng thiể số/ bản địa.
Chương trình loại này có tên gọi là giáo dục song ngữ chuyển tiếp (Transitional
Bilingual Education) thường kéo dài từ 1 học kỳ đến 3 năm, nhiều lắm là 5 năm,
hay hết bậc tiểu học. Chúng còn có những tên gọi khác: early exit BE (giáo dục
song ngữ ngắn hạn), mother tongue based, hay content based. Đó là chương trình
chính khóa được dạy hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ của học sinh trong những lớp
riêng để học sinh hiểu và theo kịp yêu cầu của chương trình. Họ sinh này vẫn học
bình thường các chương trình đó trong các lớp chung. Nếu điểm kiểm tra ở các lớp
chung đạt yêu cầu thì các lớp tiếng mẹ đẻ sẽ chấm dứt. Đa số chương trình song
ngữ của Mỹ đều có mô hình này.
Chương
trình giáo dục song ngữ mạnh: Chương trình có mục
đích bảo tồn, phát huy ngôn ngữ sắc tộc thiểu số/ bản địa, phát huy sự đọc
thông viết thạo hai hay nhiều ngôn ngữ. Thực chất là chương trình song ngữ chuyển
tiếp được kéo dài ra, và lên đến lớp 9 hay hơn nữa. Chương trình này được xem
là sự duy trì cầu nối song ngữ, duy trì sự thành thạo tiếng mẹ đẻ song hành với
chương trình chuẩn quốc gia bằng quốc ngữ. Không như ở giáo dục song ngữ thể yếu:
lớp tiếng mẹ đẻ ngưng sau vài năm. Chương trình gdsn mạnh, tiếng mẹ đẻ được duy
trì từ 5- 10% so với thời lượng lên lớp (khoảng 1 đến 2 tiết trong một tuần học).
Chương trình này còn được gọi là: Late exit bilingual education, developmental
(maintenance) bilingual education, heritage language bilingual education. Do đó
tiếng mẹ đẻ không bị lãng quên trong tiến trình học quốc ngữ, và không bị nguy
cơ thay thế. Thể thức giáo dục song ngữ mạnh khuyến khích và nuôi dưỡng tình trạng
song ngữ/ đa ngữ trong xã hội.
Mô
hình thực tiển trên thế giới: của các chương trình
giảng dạy tiếng mẹ đẻ (giáo dục song ngữ). Sự đa dạng về mô hình và mục đích của
giáo dục tiếng mẹ đẻ trên thế giới như một số chương trình điển hình được trình
bày sau đây, cho thấy một bức tranh chung về giáo dục song ngữ. Mô hình song ngữ
yếu và mục đích cải thiện hiệu quả học tập của trẻ em dân tộc thiểu tại Anh Quốc,
học sinh nam Á nguồn gốc (Taylor, 1985), nguồn gốc Trung Quốc (Taylor, 1987b),
Việt Nam, Síp, ý và Ukraina, Romanies. Đó là những ngôn ngữ khác ngoài tiếng
Anh (ngôn ngữ quốc gia), được giảng dạy như một môn học phụ trội, kèm theo dựa
trên nội dung các môn học bằng tiếng Anh (ngôn ngữ quốc gia) (Martin-Jones,
1984). Ví dụ của hình thức mạnh và chính sách quảng bá đa ngữ, tại châu Âu trong
chương trình giáo dục những trẻ em di trú (cộng đồng châu Âu, 1977). Tại Đức, Đức
Cặp đôi với tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, và tiếng Hà Lan để tạo ra
một mô hình' Đức' của châu Âu đa văn hóa và BE (Masch, 1994). Tại Bruney, Hệ thống
trường học Dwibahasa (hai ngôn ngữ) hoạt động thông qua tiếng Mã lai (Bahasa
Melayu) và tiếng Anh (Jones et al., 1993, Baetens, 1999). Tại Nigeria, ngôn ngữ
giảng dạy là tiếng Anh, cùng với một trong các ngôn ngữ quốc gia của Nigeria
Hausa, Ibo hoặc Yoruba (Afolayan, 1995). Ở New Zealand, phong trào Kohanga Reo
cung cấp chương trình hoàn toàn bằng tiếng Maori từ lớp đầu cấp đến hết trung học
cho học sinh người Maori (tháng 5, 1996). Một mô hình rất tiêu biểu kéo dài hơn
60 năm Ở Singapore, tiếng Anh, cộng với các tiếng quan thoại, tiếng Mã lai hoặc
Tamil (bốn thứ tiếng chính thức) (Pakir, 1994).
Giáo
dục song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ (Mother tongue based-
Bilingual Education)
Học sinh cộng đồng bản địa và thiểu số gặp khó khăn
về ngôn ngữ bước đầu đến trường. Tỷ lệ học sinh vùng này bỏ học và ở lại lớp
khá cao trong nhiều năm. Hầu khắc phục khó khăn này, giáo dục song ngữ/ đa ngữ-
dung tiếng mẹ đẻ làm cơ sở (MTB-MLE), được áp dụng, thực hiện tại một số nước ở
Châu Á Thái Bình Dương trong gần 7 năm qua, nhằm thuyết phục các chính phủ mở rộng
thành luật giáo dục và áp dụng cho tất cả các cộng đồng bản địa và thiểu số, có
học sinh gặp khó khăn về ngôn ngữ bước đầu đến trường. Chương trình này dung tiếng
mẹ đẻ của học sinh để dạy nội dung trong chương trình chuẩn quốc gia hay nội
dung văn hóa dân tộc đươc dự án biên soạn. Lớp đầu cấp dạy bằng tiếng mẹ đẻ, tỷ
lệ giảm dần so với tiếng quốc ngữ khi lên lớp cao hơn. Ví dụ một số dự án ở
Thái Lan và Campuchia, tỷ lệ tiếng mẹ đẻ/ tiếng quốc gia là: 80/20; 50/50;
20/80; 100% tiếng quốc gia ở lớp 4. Với những cộng đồng chưa có chữ viết, văn tự
quốc gia được áp dụng để mô tả tiếng nói của họ. Ví dụ: Chữ Thái được dùng
trong các dự án ở Thái và chữ Khmer được dùng trong các dự án ở Campuchia. Cũng
là chữ quen thuộc của học sinh, được dùng để biên soạn tài liệu trong giáo
trình giảng dạy trong chương trình này. UNICEF thí điểm thực hiện Giáo dục Song
ngữ trên Cơ sở tiếng Mẹ đẻ ở ba tỉnh Lào Cai, Gia Lai và Trà Vinh (2008-2015).
Đó là tiếng Mông ở Lào Cai, tiếng Jrai ở Gia Lai và tiếng Khmer ở Trà Vinh. Các
tài liệu giáo dục song ngữ như sách giáo khoa, các dụng cụ và đồ dùng giảng dạy
được in bằng các tiếng dân tộc thiểu số cùng với việc tập huấn các kỹ năng dạy
song ngữ trên cơ sở tiếng mẹ đẻ cho giáo viên mẫu giáo và tiểu học. Ngoài ra
Save Children còn có dự án dạy tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai theo phương pháp
song ngữ cho học sinh thiểu số tại Quảng Ninh Yên Bái và Quảng Trị (2006-
2014).
Ở Việt Nam, đã có 11 ngôn ngữ giảng dạy trong nhà
trường như một môn học –giáo dục song ngữ. Trong đó đã có những chương trình rất
thành công do tỷ lệ học sinh không đăng ký đến trường, bỏ khọc, và ở lại lớp giảm
hẳn. Tiêu biểu cho những chương trình này như tiếng Cham ở Ninh Thuận, Bình Thuận;
tiếng Khmer ở Sóc Trăng, Trà Vinh…; Tiếng Hmong ở Lào Cai, Nghệ An… Nhiều
chương trình đã phát huy tác dụng trên 30 năm. Tuy nhiên, một số ít chương
trình tiếng dân tộc thiểu số tại Viêt Nam, không đáp ứng được nhu cầu, cần điều
chỉnh để có hiệu quả hơn. Hơn 30 nhóm thiểu số khác mà số học sinh bỏ học,
không đến trường, và ở lại lớp khá cao. Đối với nhóm này, áp dụng chương trình
tiếng mẹ đẻ- giáo dục song ngữ/ đa ngữ là rất cần thiết. Nếu các tổ chức hay dự
án phi chính phủ muốn có thí điểm như các dự án ở Châu Á Thái Bình Dương, nên tập
chú vào nhóm này. Các dự án sẽ thuyết phục được chính phủ một khi sau dự án
tình hình bỏ học, ở lại lớp, và chất lượng học của học sinh nhóm này được cải
thiện.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Hoàng Thị Châu. Tình hình và
chính sách xây dựng và phổ cập chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Baker, C. (2011). Foundations of
bilingual education and bilingualism (5th ed.). New York: Multilingual Matters
Ltd.
Anh, N. (2012). Teaching in
ethnic minority languages. Education and Era online.
Cummins, J. (1995). Power and
pedagogy in the education of language minority students. In J. Frederickson
(Ed.), Reclaiming our voices. Ontario, CA: California Association for
Bilingual Education.
Đinh Lê Yên (2012). Chuyển biến tích cực trong dạy tiếng dân
tộc trong trường phổ thông. From http://gdtd.vn/channel/2741/201110/Chuyen-bien-tich-cuc-trong-day-tieng-dan-toc-thieu-so-trong-truong-pho-thong-1954299/
UNICEF. 2010. Program Brief:
Action research on Mother Tongue-Based Bilingual Education creating learning
opportunities for ethnic minority children. From
http://www.unicef.org/vietnam/Tomtatchuongtrinh_Engl-final.pdf