Tuesday, 18 June 2013

TS Quảng Đại Cẩn giải đáp những câu hỏi thắc mắc của sinh viên Cham:





TS Quảng Đại Cẩn giải đáp những câu hỏi thắc mắc của sinh viên Cham:
Thứ Sáu ngày 17/5/13. Tại tầng hai của một quán cà phê thơ mộng ấm cúng và an toàn. (Đua phôl Vạn Vỹ, Thê Quang, Ja Vinh, Ja Thao Quang: các nhà design tài ba. Giờ chót vẫn không biết địa điểm là chỗ nào, mà mọi chuyện đã đâu vào đấy). Sau một lúc báo cáo 4 chủ đề cần bàn. Câu hỏi được đặt ra và trao đổi nóng sốt bắt đầu:
Các câu hỏi và trao đổi với sinh viên Cham của TS Quảng Đại Cẩn được tường trình:
Các câu hỏi thắc mắc của SV (Nhiều câu hỏi trùng ý, xin trả lời chung). Vì thời gian họp mặt có hạn, sự chuẩn bị chưa chu đáo, nên sự trao đổi chưa toát được hết ý. Một số thắc mắc và ý kiến cũng có thể sẽ không thể hiện được hết mong bạn đọc góp ý bổ sung. Các hỏi đáp được thể hiện như sau:

1. Bộ chữ AT của Cham cũng giống như bộ chữ của Hàn Quốc đều do vua lập ra và lưu truyền đến nay. Chữ Hàn cho đến nay không thay đổi và đã đưa đất nước Hàn phát triển, vậy tại sao chữ Cham Cei không chọn chuẩn theo đúng như cách đây 200 năm, trong các văn bản Hoàng Gia Pangduranga?

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp phát triển không ngừng về âm vị, từ vựng, cấu trúc, và ngữ nghĩa để đáp ứng nhu cầu giao tiếp hằng ngày của một cộng đồng, xã hội thăng tiến. Nhu cầu giao tiếp trao đổi thông tin phát triển không ngừng trong một xã hội nhất định. Nếu nó không đáp ứng được thì lập tức bị thay thế bởi một phương tiện giao tiếp khác thuận tiện hơn. Chúng ta đang nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt là một ví dụ điển hình cho sự không đáp ứng được nhu cầu giao tiếp của tiếng Cham và “bị” thay thế bởi tiếng Việt. Chuẩn là làm cho tiếng Cham hành chức giao tiếp hiệu quả trong toàn cộng đồng cả giao tiếp nói và viết.
Đối với chữ Hàn: CÓ chuẩn hóa. Văn tự nào cũng không ngoại lệ, nếu muốn phát triển, phải language planning. Bảng chữ cái tiếng Hàn được công bố và dùng đầu tiên năm 1446 bao gồm 28 con chữ bao gồm 7 kí hiệu ghi nguyên âm, 17 kí hiệu ghi phụ âm và 4 kí hiệu phụ. Vua Sejong (Thế Tông) không sáng tác ra tất cả 28 chữ mà dựa trên một số chữ cơ bản để phái sinh ra các chữ cái tiếp theo sau này. Nhưng trong quá trình hình thành và phát triển, chữ Triều Tiên được cải biến, chỉ còn có 24 con chữ và cho đến nay là 21 nguyên âm (10 nguyên âm đơn) và 19 phụ âm. Tên Hangeul do nhà nghiên cứu tiếng Hàn Ju Si-kyung tạo ra và được sử dụng từ năm 1913 và sử dụng một bảng chữ cái gồm 51 kí tự, 24 kí tự đơn và 27 kí tự kép như ngày nay. Những con số khác nhau từ 28 ký tự đơn thành 51 (bao gồm 24 ký tự đơn) nói lên sự thay đổi: Chính là chọn chuẩn để có một đất nước Hàn phát triển như hôm nay.
Chuẩn chính tả Akhar Thrah là làm cho AT Cham chuyển tải được hết ý nghĩa của lời nói, mô tả được hết các âm vị khi nó biến đổi và gây khu biệt nghĩa. Nhà ngữ học căn cứ vào các yếu tố (nét) khu biệt nghĩa để định nghĩa âm vị của một ngôn ngữ. 19 trí thức Cham hàng đầu đã thất bại trong giảng dạy chữ Cham năm 1964-1975. Chính họ cùng với Lưu Quý Tân, Thiên Sanh Cảnh, Lâm Gia Tịnh…, đã chuẩn chính tả cho cặp “gak lak” (viết 1 kiểu mà đọc thành 2 kiểu có hai nghĩa- và bốn cặp như vậy nữa: dak, ppak prong; bak, dhak; khak, nhưk; pak, sak prong) cho AT Cham, vẫn thất bại. Họ thấy cần chuẩn cho 194 vần nữa (tương tự kiểu gak-lak) như đã tổng kết vào năm 1990 để có thể hồi sinh tiếng Cham và chữ Cham như hôm nay. Nhờ nó mà Cham còn có “cái” để mà bất đồng.
Cei là nhà chuyên môn có trách nhiệm trong lĩnh vực này, Cei không chọn nhưng có quyền và phải đánh giá lại các chuẩn của Cham để cộng đồng Cham thấy và chọn ra cái cần thiết đúng đắn để Cham phát triển. Đó là chuẩn dễ nhất, đơn giản và chính xác nhất để mọi người dễ tiếp cận, phổ biến và trao đổi tiếng Cham: Chính chuẩn đang giảng dạy hiện nay là hơp lý. Nếu muốn chọn chuẩn khác, thì phải theo đúng quy trình chuẩn hóa văn tự như quy định của Bộ Giáo Dục (liên hệ Trung Tâm Giáo Dục Dân Tộc để biết thêm chi tiết và được giúp đỡ). Không nên có những phát ngôn tiêu cực thể hiện thiếu hiểu biết và không đem lại kết quả gì.

2. Hội Thảo Kuala Lumpur (HTKL) 2006 đã chỉ ra 7 điểm sai lầm trong sách giáo trình của BBSSCC. Vậy tại sao từ 2006 đến nay mà Trung Tâm Giáo Dục DânTộc (TTGDDT) không tổ chức một cuộc hội thảo thỏa đáng để trả lời cho cộng đồng Chăm về 7 điểm ấy trong hội thảo HTKL và việc cải biên của BBSSCC.

Về 7 sai lầm đưa ra trong HTKL là sự ngộ nhận của những người không có chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu. Điều này đã được trả lời ngay trong web sapcham, năm 2006 trong bài “Khái quát về sự chỉnh lý chữ Cham Akhar Thrah” có đăng trong Tạp Chí Ngoại ngữ, tin học và giáo dục số 9, 2007, Trường Đại Học Ngoại Ngữ Tin Học Huflit. Đọc kỹ toàn văn báo cáo HT quốc tế ngôn ngữ tại Hà Nội của TS Quảng Đại Cẩn sẽ rõ (Minh định thành quả chuẩn hóa chữ Cham Akhar Thrah của Ban Biên Soạn Sách Chữ Cham tỉnh Thuận Hải). Mời các bạn xem lại.
Tại Hội Thảo ở Phanrang ngày 7/2/2007 để trả lời yêu cầu thay sách giáo khoa tiếng Cham của HTKL 2006, thứ trưởng Đặng Huỳnh Mai, cho mọi người chứng minh 3 vần (poh gak, croh aw không darsa, baluw với darsa dardwa) là không có trước năm 1978. Chỉ có 2 người (TS Thành Phần và Sử Văn Ngọc) cho là không có, còn tất cả những người khác đều có bằng chứng, văn bản chép tay, hay bản in, từ điển trước 1978 có 3 vần nêu trên. Căn cứ vào đó mà thứ trưởng kết luận không thay sách cho đến khi có nghiên cứu mới. Chính vậy nên việc tổ chức hội thảo nữa để đính chính sự ngộ nhận của HTKL (do thiếu kiến thức chuyên ngành) là không cần thiết. Điều này cũng đã được đề cập, thảo luận và biểu quyết trước năm 1990. Khi chưa vững, mới học hay mới nghe nói về AT thì tranh cải rất hăng về 3 vần này. Khi giỏi AT rồi thì tức khắc biết ngay ba vần đó đã có truớc khi BBSSCC ra đời, và biết ngay 3 vần này cũng là AT truyền thống. Lẽ nào AT truyền thống + 3 vần truyền thống = AT chế biến hay lai căng??? Do vậy cho nên AT đang dạy trong nhà trường cũng chính là AT truyền thống. Khi không có chuyên môn (không biết âm tố, ngữ tố và hậu tố là gì) thì nhìn gà hóa cuốc, nhìn trâu hóa bò là điều tự nhiên. Chúng ta, cộng đồng Cham cần tha thứ và giúp họ điền khuyết thông tin để hóa giải ngộ nhận chứ không phải tiếp tục tổ chức những hội thảo mới hóa giải được ngộ nhận xuất phát từ thiếu thông tin.

3.  Tại sao chọn chuẩn trong từ điển Aymonier Cabaton 1906 mà không trong các văn bản khác? Theo như bài viết của Cei Cẩn thì “Chuẩn Chăm hiện nay, BBSSCC xong 1990 (là đã chuẩn), và nhóm Po Dharma qua HTKL 2006 muốn chọn lại chuẩn cách đây 200 năm bằng cách bỏ 3 vần trong hệ thống đã chuẩn của BBSSCC. Vậy theo hướng của Cei tại sao không chọn chuẩn 200 năm trước của tổ tiên để lại mà lại chọn chuẩn 1990 của BBSSCC.

Câu này đã có giải đáp kỹ trong báo cáo HT quốc tế ngày 11/5/13 tại Hà Nội: Khi chọn chuẩn cho một ngôn ngữ thì không thể chọn văn bản này bỏ văn bản khác mà là hầu hết các văn bản chép tay, ấn phẩm của AT Cham có thể tiếp cận đều được tập hợp và xem xét. Hầu hết tất cả các kiểu viết AT Cham đều có thể hiện trong Từ Điển Aymonier Cabaton 1906 do đó việc xem AC là tư liệu chính, quan trọng là hợp lý để chọn chuẩn. Nói trong Hoàng Gia Pangduranga (HGP) là không có 3 vần đó khi mà mọi người không ai thấy văn bản (HGP) thì không khác gì kết luận không có bằng chứng, không thuyết phục. Ba vần này đã được tổ tiên ta sử dụng. Đối chiếu với các nhóm ngữ cùng họ Chamic hay Malayopolinesien như Malay, Tagalog (Philippine) đều thấy tương đồng và hợp lý. Chính vì vậy mà chuẩn đang dùng trên 25 năm nay là rất hợp lý. 

4. Theo như Cei thảo luận về ngôn ngữ chết và sống của dân tộc thì Cei có nói không giao tiếp đồng nghĩa với ngôn ngữ Chăm sẽ chết dần nhưng số lượng học và giao tiếp bằng chữ viết của BBSSCC rất ít chỉ giới hạn ở học sinh tiểu học không bao trùm xã hội Chăm trong khi đó chữ Chăm truyền thống được sử dụng rất nhiều trong văn hóa dân tộc và giải pháp nào cho giới trẻ trong việc học chữ viết dân tộc.

“Chữ Cham truyền thống được sử dụng rất nhiều trong văn hóa dân tộc”: các em nên phân biệt bản chép tay, ấn bản AT cổ đã có không có nghĩa là đang sử dụng giao tiếp vì nghĩa của mỗi từ trong văn bản cổ đều phải tra từ điển. Chữ Hán, Nôm có nhiều không? người đọc có tra từ điển không? Có ai dùng Hán Nôm để giao tiếp không (Chữ Hán, Nôm đã chết). AT Cham cách đây 200 năm cũng vậy, đã chết vì không dùng để giao tiếp. Để hiểu điều này cần có chuyên môn hay sự tinh tế một tí, và cần nhiều thời gian giải thích, sẽ trao đổi vào một dịp khác. Tham khảo thêm “Cái chết của một ngôn ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn cũ”.
Hệ thống AT bao trùm xã hội Cham là gì: TS Quang Cẩn không phân biệt truyền thống hay chuẩn hóa, chế biến (thực ra AT Cham là một vì khác nhau chỉ có 3 vần hay có và không thể hiện ngắn dài). Nhưng nếu các bạn muốn phân biệt, xin cho các bạn một bức tranh: AT chuẩn dạy trong trường từ năm 1978 tại Ninh Thuận và Bình Thuận, có trong phát thanh, truyền hình và tạp chí của chính phủ. Từ năm 1990 đến nay bình quân 10 ngàn người học mỗi năm với trên 300 giáo viên dạy. Đây là môn tự chọn, học sinh có quyền không học. Từ 2003 đến nay 100% học sinh các làng Cham học tiếng Cham. AT truyền thống (không thể hiện dấu âm dài) được dạy cho sinh viên Cham dưới một trăm người hằng năm, các chức sắc Cham dưới một trăm người dùng trong các lễ truyền thống Cham. Vài trăm so với hằng vạn người là gì các bạn tự hiểu. Giải pháp cho các bạn là không tranh cải, học hệ thống nào cũng được, nên viết thư hay nhật ký nhiều và nghe người khác hiểu văn bản mình viết ra thế nào thì sẽ biết là nên học, phổ biến AT nào.

5.  Theo như Cei nói sẽ xin phép được mở chương trình dạy tiếng Chăm cấp II,III vậy nếu được mở thì sẽ chọn giáo trình nào ? nếu chọn giáo trình của BBS thì người Chăm còn mấy ai biết về Chăm, về văn hóa về lịch sử dân tộc Chăm vì rằng chữ Chăm luôn đi song song và nằm trong văn hóa dân tộc Chăm. Theo như tôi có đọc trên Champaka là Cei kết luận cuốn sách “Ngôn ngữ Chăm-Thực trạng và giải pháp” chỉ là cuốn sách “đọc xong thì có thể làm giấy lộn (giấy để đi tiểu tiện)” vậy tại sao Cei lại kết luận như thế trong khi các vị trong cuốn sách ấy là những chuyên gia hàng đầu của Chăm về văn hóa Chăm. Theo như tôi nghĩ nếu ngôn ngữ Chăm được dạy trong các trường cấp II, III và sẽ lấy giáo trình chuẩn của BBS để giảng dạy thì điều đó có nên hay không vì rằng hai hệ thống ngôn ngữ chưa được thống nhất và tạm gọi là đang tranh chấp vậy Cei nghĩ thế nào?

Câu này có 3 ý, lần lượt từng ý một: (1) Giáo trình của BBSSCC thì người Cham còn mấy ai biết về Cham. Hàm ý của em là giáo trình của BBSSCC không chứa văn hóa và ngôn ngữ Cham. Tôi là một trong những người từng biên soạn và thiết kế giáo trình: là một công việc đòi hỏi chuyên môn rất cao. Khi đó trong nhóm biên soạn có một chuyên gia của Bộ Giáo Dục và một chuyên gia UNICEF (nước ngoài) bên cạnh. Họ xem xét đánh giá và chọn lọc từng từ vựng, cấu trúc câu, độ dài của văn bản, từng nét vẽ của kên hình, độ lớn của hình, chữ rất thận trọng. Gíao trình cũng nhằm vào hai tiêu chí: mục tiêu bảo tồn văn hóa, ngôn ngữ dân tộc hay đồng hóa. Giáo trình BBSSCC đang dùng là bảo tồn cho nên dung lượng văn hóa Cham rất nhiều. Nếu nói là giáo trình BBSSCC hiện nay làm cho học sinh quên cội nguồn thì nên cho biết cụ thể bài nào? lớp mấy? Tất cả đều nói về sinh hoạt trong gia đình, thôn làng Cham, về các nhạc cụ Cham, về các lễ hội Cham, về truyền thống Cham… Nều không đồng ý với cách làm của BBSSCC thì các bạn cần chuyên môn về Curriculum and Instruction Studies (nghiên cứu về chương trình giảng dạy) và biên soạn giáo trình tốt hơn để người Cham chọn lựa. Trước khi chê nên có chuyên môn về lãnh vực này (biên soạn giáo trình) thạc sĩ hay tiến sĩ, và chê nên cụ thể để người ta có thể sữa chửa được.
(2) Đọc xong thì có thể làm giấy lộn đi tiểu tiện: Cei quý trọng những người quan tâm đến ngôn ngữ văn hóa Cham, không bao giờ nói những từ như thế. Nghiên cứu của người ta dù hay dù dở, cũng đáng ghi nhận vì công sức họ đã bỏ ra. Cei chỉ góp ý khi người ta yêu cầu, còn không thì chỉ khen. Sự kiện “giấy tiểu tiện” được Champaka nêu lên và lắp đi lắp lại. Cei đã có thư riêng cho họ, Abdul Karim Lộ Trung Cân và Po Dharma đề nghị đính chính vì Cei không nói hay viết như vậy. Họ không trả lời (vào face: Kawôm tuơk tuak kataap akhar Cham sẽ rõ). Các em có thể thấy cách ứng xử tương tự trong Champaka: chỉ vì ngộ nhận do mình thiếu thông tin mà đã quy chụp bao nhiêu người tốt (muốn nói lên sự thật, không theo sự ngộ nhận của CPK) là đội ngũ bút chiến (ĐNBC)…. [ĐNBC tập chú vào vấn đề liên quan đến đấu tranh dân chủ và chính thức được thành lập vào thứ Tư 9/1/2012 chứ không phải chuyện AT Cham cách đây 6 năm].
(3) “Hai hệ thống ngôn ngữ đang tranh chấp”: Không ai tranh chấp nếu Pô Dharma và Champaka không tranh đúng và lên án BBSSCC là phá hoại và những người không theo sự ngộ nhận của HTKL là “đội ngũ bút chiến”. Chính tả AT đang dạy trong nhà trường đã được đồng thuận của đồng bào Cham tỉnh Thuận Hải, thông qua biểu quyết và Hội thảo lần cuối để chọn văn tự biên soạn sách giáo khoa năm 1990. Sau năm 2006 có tranh chấp, ngộ nhận. Năm 2007 Hội đồng thẩm định kết luận là hợp lý và tiếp tục sử dụng. Cho dù nhiều lần Champaka và Po Dharma lên án chính tả AT đang dùng hiện nay là lai căng, chế biến hay phá hoại, nhưng 100% học sinh Cham gồm trên 10 ngàn người vẫn đăng ký học hằng năm dù là môn tự chọn (họ có thể nghỉ học bất cứ lúc nào). 20 ngàn phụ huynh vẫn ủng hộ và yêu cầu đưa hệ thống này lên dạy cấp trung học và đại học. Năm 2013 TS Quảng Đại Cẩn chính thức khẳng định thành quả chuẩn hóa AT Cham của BBSSCC là hợp lý tại Hội thảo quốc tế về ngôn ngữ học ở Hà Nội. TS Quang Cẩn tiếp tục làm việc cụ thể với TTGDDT và Tỉnh Ninh Thuận để đưa chương trình tiếng Cham vào cấp 2, 3 và Trung tâm giáo dục thường xuyên. Ông cũng nêu lên trong Hội Thảo quốc tế rằng sự phê phán của HTKL 2006 là một ngộ nhân của những người thiếu chuyên môn. Cho nên nói là AT Cham đang còn tranh chấp là không đúng. Hai hệ thống đều đúng, không mâu thuẩn nhau, đều là AT truyền thống, ai giành tôi đúng, anh sai là người đó chưa thông hiểu về AT. Vì hơn 30 năm qua không Pô Dhia nào hay ai khiếu nại gì về AT của BBSSCC trong nhà trường. Pô Dhia Hán Đô khẳng định: “Hơn 30 năm nay vẫn vậy, có ai nói gì đâu? Akhar thei thei ngui bisiam, jôi mưthao gơp jôi!”.

6.  Chúng ta nên công bố tư liệu Hoàng gia và nếu có thể dùng tư liệu Hoàng gia để làm chuẩn trong việc chuẩn hóa chữ Chăm hiện nay vì rằng trong tất cả các văn bản qua lại giữa vua và các quan lại luôn có quy tắc và chuẩn mực nhất định.

Làm sao các bạn biết HGP là chuẩn mực? khi nó chưa được công bố? Có phải bạn đang sáng tác? Nghiên cứu là nói chuyện trên bằng chứng và cơ sở dữ liệu.
Đã có giải đáp: Chọn chuẩn là xem xét tất cả các tư liệu để liệt kê ra tất cả các kiểu viết của tất cả các vần. Các chuyên gia sẽ rà xét và chọn kiểu viết hợp lý của từng vần một, được đồng bào biểu quyết và hội đồng thẩm định thông qua. Năm 1990 đã làm đúng như vậy.
Hãy đọc lại kỹ văn bản trong HGP (nếu có thể), cấu trúc âm trong từ điển AC 1906 và tự kiểm tra trình độ chữ Cham AT của mình qua các câu hỏi sau sẽ không thắc mắc tại sao không chọn cái này hay cái kia làm chuẩn:
(a)    Chữ Chăm Akhar Thrah Chuẩn hóa trong nhà trường và chữ Cham AT truyền thống khác nhau thế nào? Inư Akhar? Takai Akhar? Âm tiết (vần)?
(b)   Nhóm Lưu Quý Tân, Thiên Sanh Cảnh, đã chuẩn bao nhiêu chữ cái Cham- Viết giống nhau khi đọc khác nhau kiểu gak-lak: Bao nhiêu chữ cái? Tên chữ cái đó là gì?
(c)    Akhar Thrah truyền thống trước 1906 và Akhar Thrah sau này trong Từ điển G. Moussay 1971 có bao nhiêu phụ âm cuối không được sử dụng (Phụ âm cuối có trong AC nhưng không có trong GM)? Bao nhiêu và tên gọi là gì?
(d)   AT Cham có bao nhiêu tiền tố, trung tố, hậu tố? Tên gọi là gì, nghĩa như thế nào? Mỗi ngữ tố cho hai ví dụ có trong từ điển?
(e)    Trong 2 từ điển trên âm ô, ê có (baluw) ngắn dài không? Nếu có cho hai ví dụ?
(f)    Nguyên tắc vàng liên quan đến “baluw và trắc trầm [ngắn dài]” nào mà HTKL 2006 phát hiện và BBSSCC triệt để tuân theo trong luật chính tả của mình?
Câu trả lời có thể gởi đến cho TS Can Quang, sẽ có thưởng cho người có trả lời đúng và gởi sớm nhất. Sẽ có đáp án cho người có yêu cầu (liên lạc qua email). (Câu hỏi b,c,d,e là điều kiện tốt nghiệp của GV Cham tại Sư Phạm Ninh Thuận).

7.  Theo như Cei nói ngôn ngữ Chăm sẽ được dạy lên cấp II, III nhưng hiện nay cộng đồng Chăm chưa đồng ý sẽ sử dụng hệ thống ngôn ngữ nào do đó Cei với vai trò là TS ngôn ngữ học và xin đề xuất do đó Cei cần phải xin Bộ Giáo Dục tổ chức một cuộc thảo để giải quyết vấn đề đang tranh cãi về ngôn ngữ hiện nay.

Đã có trả lời trong phần trước. Tranh cải do ngộ nhận của một số người thiếu thông tin về ngôn ngữ học và chưa thực sự thông hiểu về Akhar Thrah. Viện hàn lâm khoa học xã hội, Viện ngôn ngữ đã liên tiếp mở nhiều Hội thảo về ngôn ngữ mời các chuyên gia về ngữ học Cham nói về AT Cham, thế nhưng không ai tham dự? Nhưng tỏ ra rất ồn ào trong những không gian riêng, không chuyên nghiệp do mình tự tạo ra ví dụ: Champaka.info. Nếu những người ngộ nhận còn cho là mình đúng thì hãy liện hệ với TTGDDT, Bộ Giáo Dục, Viện Ngôn ngữ họ sẽ giúp tiếng nói của các bạn được thế giới lắng nghe.

8. Tại sao chúng ta không học thẳng AT các chức sắc đang sử dụng luôn mà phải hoc AT BBS chứ? Còn nếu chúng ta cứ học theo BBS thì những người học sau này sẽ gặp những khó khăn trong việc tiếp nối akhar tapuk của cha ông để bảo tồn.Chúng ta nên có suy nghĩ học AT truyền thống không khó hay dễ hơn BBS mà học AT truyền thống thì chúng ta có thể tiếp cận ngay akhar tapuk của cha ông để lại mà ko vấp phải một số khó khăn. Theo Giáo Sư Khả Kính, học chữ BBS không đọc được sách ông bà?

Câu này đã trả lời nhiều lần: Chữ AT BBS khác AT truyền thống thế nào đến nỗi không đọc được AT truyền thống? Inư akhar và takai akhar giống nhau tuyệt đối. Vần AT BBS bao trùm tất cả các vần truyền thống cộng thêm ba vần cơ bản đang bị ngộ nhận hoặc xuyên tạc là (BBS chế tạo). Trong sách giáo khoa của học sinh có luôn những vần xưa nay trong bản đối chiếu (sách giáo viên 1, 2, 3, 4 và 5) và có dạy trong chương trình lớp 5, phần Hakum xap (Ngữ Pháp). Do vậy tất cả các vần trong truyền thống đều nằm trọn trong chương trình tiếng Cham tiểu học. NẾU AI ĐÓ TÌM THẤY VẦN TRUYỀN THỐNG NÀO KHÔNG ĐƯỢC DẠY HAY ĐỀ CẬP TRONG SÁCH GIÁO KHOA CỦA BBSSCC XIN NÊU RA CHO ĐỒNG BÀO, GIÁO VIÊN CHAM CÙNG XEM. Do đó cho rằng học chữ Cham AT BBS sẽ khó khăn hay không đọc được AT truyền thống là sự ngộ nhận (do thiếu thông tin), biạ đặt hay xuyên tạc (do thành kiến).

Đua phôl wa Ysa hu dai dong ka harei ni. Đua phôl abih dôm yut mai pajrưng yoom. Damưưn oh gook abih drei su-uh ka akhar, xap Cham. Ppachôm binhuơl hadei gook abih adei xa-ai.
Chân thành cám ơn bác Ysa đã  tài trợ  cho cuộc gặp mặt này. Cám ơn tất cả các bạn đến dự. Tiếc là không gặp hết những bạn quan tâm đến chữ Cham, tiếng Cham. Mong gặp tất cả các bạn lần sau.



Tuesday, 4 June 2013

Minh định thành quả chuẩn hóa chữ Cham Akhar Thrah của Ban Biên Soạn Sách Chữ Chăm tỉnh Thuận Hải



Minh định thành quả chuẩn hóa chữ Cham Akhar Thrah của Ban Biên Soạn Sách Chữ Chăm tỉnh Thuận Hải
Justification for the Standardization of Cham Akhar Thrah of Cham Textbook Compiling Committee in Thuan Hai Province
TS Quảng Đại Cẩn
I. Đặt vấn đề:
Ban Biên Soạn Sách Chữ Chăm (BBSSCC) chính thức hoạt động từ ngày 01/06/1978 (Quyết định thành lập số 104/QĐ-UB Thuận Hải ngày 15/3/1978) đến 31/10/2010, sau đó chuyển thành Trung Tâm Giáo Dục Dân Tộc (TTGDDT)) là cơ quan chịu trách nhiệm (1) nghiên cứu chữ Cham Akhar Tharh để phổ biến và phát triển; (2) biên soạn giáo trình, sách tham khảo, và sách đọc thêm cho học sinh và đồng bào Cham; (3) tổ chức dạy và học Cham ngữ trong trường tiểu học, đào tạo giáo viên chữ Cham, tiếng Cham trong trường Sư Phạm. Biên chế ban đầu gồm 19 người (chuyên môn gồm 15 người, hành chánh quản trị có 4 người, theo quyết định biên chế số 646/ QĐ-UB Thuận Hải ngày: 3/5/1978) Thiết Ngữ (Trưởng Ban- phó Giám Đốc Ty Giáo Dục Thuận Hải), Lâm Nài (phó ban phụ trách), Bạch Thanh Chạy, Lâm Gia Tịnh, Trượng Tốn, Qua Đình Bồi, Nguyễn Ngọc Đảo, Quảng Đại Hồng, Châu Văn Đỉnh, Châu Văn Kên, Nguyễn Hữu Châu, Phú Hữu Tỏ, Phú Văn Kỉnh, Đàng Năng Mão, Đàng Năng Quạ, Thiên Sanh Dưỡng, và Thập Văn Hưởng.
Với kinh nghiệm thất bại trong chương trình dạy tiếng Cham từ 1964-1975, những giáo viên này điều chỉnh nguyên nhân và quyết định chuẩn chính tả. Việc san định lại âm vần được thực hiện trong 12 năm (1978-1990). Bước chuẩn hóa này rất phù hợp với “language planning”[i], một chuẩn bị cần thiết để phát triển giáo dục ngôn ngữ dân tộc thiểu số (Baker, 2011). 
Chương trình tiếng Cham, thành quả thuẩn hóa, được đánh giá cao trong các báo cáo của ngành, giới khoa học, chuyên gia của trường Đại Học Melbourne Úc (Marilyn & Paul, 1996), đồng bào Cham nói riêng và dân tộc thiểu số có chương trình tiếng dân tộc nói chung đã tiếp sức cho chương trình phát triển bền vững đến nay. Thành quả của chương trình tiếng Cham đã giúp bao trùm và cập nhật được tiếng, chữ Cham trong cộng đồng Cham và Việt Nam. Tuy nhiên, sau 28 năm thưc hiện, nổi lên một đánh giá nghịch chiều là: BBSSCC đã góp phần “phá hủy” kho tàng ngôn ngữ chữ viết Cham, di sản thiêng liêng của dân tộc Champa (Po Dharma, 2007b, tr. 29). Dù vậy người Cham, lịch sử ngôn ngữ Việt Nam vẫn mãi ghi nhận công trình đồ sộ đầy nhiệt huyết của tiền nhân dù có chế biến vài vần hay vài sai lầm thật đi nữa.
II. Diễn biến của sự ngộ nhận:
Po Dharma có khen chương trình tiếng Cham: “… công trình giúp đỡ con em Chăm … học tiếng Chăm trong trường lớp” (2007b, tr. 29). BBT Champaka.info viết: “Vì rằng Champaka là tổ chức rất hoan hô sách giáo trình dạy chữ Chăm vô cùng đồ sộ của BBSSCC và nhất là công lao của cơ quan này.”, và CPK.info yêu cầu: “Champaka chỉ yêu cầu BBSSCC sửa đổi 4 điểm sai lầm trong sách giáo trình để thống nhất lại Akhar Thrah truyền thống của người Chăm có lợi cho chính sách bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của nhà nước Việt Nam đưa ra mà thôi.” (Harak Champaka 28, 2008, tr. 140)
Năm 2006 tại Hội Thảo Kuala Lumpur (HTKL) với bài viết “Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử”, Po Dharma kết luận rằng: “, sách giáo trình giảng dạy tiếng Cham của BBSSCC dù thế nào đi nữa cũng là một công trình rất là lợi ích đã giúp đỡ con em Cham có cơ hội học tiếng Cham cơ bản trong trường lớp. Tiếc rằng, sách giáo trình này lại vấp phải 7 sai lầm đã đưa ngôn ngữ chữ viết Cham, một di sản văn hoá thiêng liêng của dân tộc Cham đi vào khúc quanh của lịch sử,” (Harak Champaka 15, 2006). Kết luận HTKL yêu cầu phải xóa bỏ 3 vần “chế tạo” trong số hơn 190 vần BBSSCC đã chuẩn (Po, 2007a, tr. 17).
Hội đồng thẩm định, Bộ Giáo Dục Đào Tạo (GDĐT) trả lời yêu cầu của HTKL ngày 7/2/2007: “Chuẩn hóa của BBSSCC là hợp lý, HTKL cần nghiên cứu thêm.” Po Dharma chẳng những không nghe mà còn dấn sâu hơn vào sai lầm. Thay vì nghiên cứu thêm để thuyết phục hơn, ông chọn cách tăng án cho tập thể BBSSCC (thực chất là lên án 19 nhà giáo Cham hàng đầu thời bấy giờ). Ông viết: “Sự lượt bớt, cải biến tiếng Chăm của BBSSCC … trở thành hành vi tiêu cực … phá hủy kho tàng quý báu ngôn ngữ chữ viết Chăm truyền thống… là di sản thiêng liêng của một dân tộc Champa hôm nay.” (Pô, 2007b, tr. 29). Sự thực đó chính là sự CHỌN LỰA từ các cách viết đã có từ trước khi BBSSCC ra đời của đồng bào Cham Thuận Hải để chuẩn CHÍNH TẢ.
III. Nguyên nhân của sự ngộ nhận:
III.1. Tư liệu nghiên cứu không đầy đủ:
Po Dharma và HTKL ngộ nhận rằng mẫu mực cho Akhar Tharh chỉ có trong tư liệu Hoàng Gia Champa (1702- 1850) và trình bày nó như là nguồn tư liệu duy nhất trong các lập luận trình bày tại HTKL. Gồm những bản ghi chép công việc hành chánh của triều đình Champa-Panduranga và chưa được công bố (Kỉ yếu Hội Thảo Kuala Lumpur, 2007). Do đó công chúng không thể tiếp cận được để kiểm chứng những luận cứ trong văn bản HTKL. Để có kết luận tin cậy được, tư liệu nghiên cứu phải khả tín, phải bao gồm tư liệu cập nhật nhất là toàn bộ AT đang lưu giữ sử dụng trong dân, và các từ điển Cham trước 1978. Nhất là từ điển Cham Francais của AC 1906 gần như  bao trùm toàn bộ các kiểu viết AT của Champa tại Đông Dương (Campuchia và Việt Nam). Từ điển được xem là kim chỉ nam cho những ai nghiên cứu về văn bản AT Cham cho tới nay.
III.2. Hạn chế về cơ sở lý luận:
Chỉ có bài viết của Po Dharma là mô tả và phân tích kỹ cấu trúc âm vần Cham như là bài chủ đạo của HTKL. Dù có một số nhầm lẫn nhưng ưu điểm là cơ bản vì đã chạm được vào toàn bộ cốt lõi vấn đề chuẩn hóa của BBSSCC- vấn đề ngắn dài của âm chính gây khu biệt nghĩa.
Ưu điểm: Nhận diện được bản chất vấn đề, nhưng dùng sai thuật ngữ và không đưa ra được danh sách ngoại lệ.
Vài lần Pô Dharma (2007b) dùng đúng từ, đúng hiện tượng: “ký hiệu baluw (âm dài) rất quan trọng” (tr. 12), “baluw chức năng dài hóa âm trắc” (tr. 23), nhưng không nhất quán trong lập luận. Ông viết: “tiếng Cham cổ điển … Hệ thống dùng baluw không có một qui luật rõ ràng và không ổn định… Qui luật dùng baluw trên [vần] ak, uk trong tiếng Chăm cổ điển vẫn còn lưu lại trong akhar thrah hôm nay” (2007b, tr. 9). Trang 13, ông viết: “Tóm lại, baluw là ký hiệu chỉ có giá trị khi dùng nó để biến âm tố (phonème) [âm tiết][ii] ak, uk, ek «âm trắc [ngắn]» thành âm tố (phonème) [âm tiết] ak, uk, ek [āk, ūk, ēk] «âm trầm [dài]» mà thôi.” Trang 9 ông khẳng định: “Tiếng Chăm cổ có qui luật rất rõ ràng về cách dùng baluw trên âm tố (phonème) a và u + phụ âm k tức là ak, uk ở hậu tố [âm tiết cuối]… không baluw dành cho âm trắc [ngắn]… có baluw dành cho âm trầm [dài].” Dù có lúc tự mâu thuẩn cho rằng AT vừa không, vừa có “quy luật rõ ràng”, nhưng ông đã nhìn ra vấn đề ngắn, dài là cơ bản và “rất quan trọng”.
Cách dùng baluw theo Po Dharma: “KHÔNG BALUW DÀNH CHO ÂM TRẮC [NGẮN], CÓ BALUW DÀNH CHO ÂM TRẦM [DÀI]”, là một phát hiện rất chính xác và khoa học. Để cho nhất quán và dễ hiểu trong lập luận, xin được dùng đúng thuật ngữ cho nét khu biệt ngắn dài. Ông cho ví dụ (tr.9): Âm ngắn /a/ trong /pak/ “nơi chốn” đối nghịch với âm dài /ā/ có baluw như /pāk/ “số 4”, /pāt/, /jāk/ “giạ”, /likūk/ “đằng sau”, /bbūk/ “đống”. Ví dụ (tr. 12): có baluw cho âm dài /ā/ như /jāk/ “rủ nhau”, /lūk/ “đần độn”, /cēk/ “phách lối”. Ông cho rằng nhiều âm dài được viết không có baluw là “cách viết không nghiêm túc… người học phải chú ý phân biệt cách phát âm” (tr. 13).  Đúng vậy, ông bà ta viết tùy tiện, rất nhiều âm dài trong thực tế (từ điển và trong các bản chép tay) được viết không có baluw, một số ít âm dài viết có baluw (khoảng vài trăm trong từ điển AC 1906 và GM 1971) (Quang, 2007). Vậy thì ngoại lệ là vài trăm từ chứa âm dài viết có baluw hay hàng ngàn từ chứa âm dài nhưng có cách viết không có baluw? Chưa thấy Po Dharma hay HTKL đề cập cụ thể từ nào và bao nhiêu trường hợp là ngoại lệ?
Tuy nhiên, do hạn chế về cơ sở lý luận ngôn ngữ học, một số nhầm lẫn trong HTKL quy vào các điểm sau: (a) Nhầm lẫn thuật ngữ, âm tố, hậu tố, và “không biết đọc”; (b) Nhầm lẫn thuật ngữ trắc, trầm, cao; (c) Nhầm lẫn các hiện tượng ngôn ngữ, ngắn dài; (d) Nhầm lẫn biến âm gây khu biệt nghĩa và biến thể tự do. Những nhầm lẫn đáng tiếc này đã dẫn văn bản chủ đạo của HTKL đến một kết luận sai lệch về chuẩn hóa của BBSSCC. 
III.2.(a) Nhầm lẫn thuật ngữ âm tố, hậu tố, và “không biết đọc”: Đôi khi ông dùng thuật ngữ âm tố và hậu tố tùy tiện khiến bạn đọc hiểu nhầm rằng Po Dharma không nắm được khái niệm cơ bản của âm vị học, âm tố, hậu tố là gì?
Âm tố (sound, phoneme):  là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, yếu tố cụ thể của một âm vị. Thế nhưng ông thường viết: “âm tố (phonème) «aok» chứa đựng ba âm…” (Po, 2007b, tr. 16) “…biến âm tố (phoneme) “ak, uk” từ âm trắc[ngắn] ra âm trầm [dài],” (tr. 9), “…âm tố (phoneme) ak, uk, ek trong Akhar Thrah Cham,” (tr. 12), “âm tố “aong” … “aik”…này luôn chứa đựng… âm trắc [ngắn] và trầm [dài]…” (tr. 16). Lẽ ra ông nên dùng ÂM TIẾT (syllable) hay vần để mô tả tổ hợp (nhiều hơn một âm vị) đó thì ổn hơn.
Hậu tố (suffix): là phụ tố (hình vị phụ thuộc) có nghĩa đi liền sau một căn tố, ví dụ như hậu tố tiếng Anh “er”, có nghĩa là “tác nhân”, nếu đi với work, thì thành worker “công nhân”, đi với read thì thành reader “người đọc”. Tiếng Pháp “able”, nghĩa là “qui peut être” trong từ “administrable, secourable”. Ông viết: “Tiếng Chăm cổ có qui luật rất rõ ràng về cách dùng baluw trên âm tố (phonème) a và u + phụ âm k tức là ak, uk ở hậu tố” (Po, 2007b, tr. 9) và: “Chế biến paoh gak ở hậu tố.” (tr. 23). Vậy hậu tố Cham, mà Po Dharma đề cập, là gì, mang nghĩa gì, và xin cho vài ví dụ về hậu tố Cham?
Không biết đọc như thế nào: Ông cũng viết: “Vì âm tố ao trong craoh aw phát xuất từ ký hiệu dar tha = «ô» mà ra. Nếu bỏ craoh aw thì còn lại là dar tha đọc là «ô». Nhưng nếu bỏ dar tha tức là «ô», thì craoh aw không có giá trị nữa và không biết đọc như thế nào.” (Po, 2007b, tr. 9). Ở đây không những ông không nhận diện được âm nào là “trắc, trầm [ngắn, dài]” mà còn “không biết đọc như thế nào” nếu từ chỉ có croh aw. Croh aw không darsa xuất hiện trên 100 mục từ trong từ điển Cham Francais AC 1906, Po Dharma cũng “không biết đọc như thế nào” và chưa thấy bao giờ? Đương nhiên là nếu tình cờ gặp ở đâu đó có croh aw không đi với darsa trong Hoàng Gia Champa, hay văn bản cổ ông sẽ cho là tác giả viết sai vì ông “không biết đọc như thế nào” (Po, 2007b, tr. 9).
III.2.(b) Nhầm lẫn thuật ngữ trắc, trầm, cao: Âm trầm (thấp) đối nghịch với phù (cao) là hai khái niệm liên quan tới âm vực. Âm trắc (sắc, hỏi ngã, nặng) đối nghịch với bằng (bình) (ngang, huyền) liên quan đến âm điệu, là “điệu vị” yếu tố âm vị siêu đoạn tính (suprasegmental phoneme) (Đoàn Thiện Thuật, 1977; Nguyễn Tài Cẩn, 1995) không liên quan gì đến khu biệt nghĩa ngắn, dài của nguyên âm- âm vị đoạn tính (segmental phoneme) của Cham. Ở đây ông dùng thuật ngữ thông dụng chuyên ngành trắc trầm (vừa thanh điệu vừa âm vực) để mô tả khái niệm khác là ngắn dài. Lại thêm một khái niệm vô nghĩa “cao” cho thấy ông vừa không nắm vững lịch sử nghiên cứu ngữ âm Cham, vừa nhầm lẫn các thuật ngữ chuyên ngành vốn có. Gây cho bạn đọc sự mơ hồ và rối rắm về một vấn đề đơn giản.
Po Dharma (2007b) đã thấy “âm dài rất quan trọng” (tr. 12). Rồi chính ông “tạm gọi” tên mới: “«aok» chứa đựng ba âm, mà chúng tôi tạm gọi là âm trắc [ngắn], âm trầm [dài] và âm cao [?]” (tr. 16). Ông diễn giải: /cōk/ “tên thôn Hiếu Lễ” âm dài, /cok/ “khóc” âm ngắn, /cog/ “bóc” âm cao. Như vậy vần có phụ âm tắc thanh hầu (glottal stops) Po Dharma cho là âm cao. Vậy thì xin hỏi Po Dharma, cũng vần “ok” trong /kanjōg/, âm /ōg/ gọi là âm gì? Và nhiều nữa như (1) vần “ak” có /ak/: âm ngắn, /āk/: âm dài, /ag/ âm cao, còn /āg/ trong /katāg/ là âm gì? (2) Vần “ap” đọc là /ap/, /āp/, /ơp/ và /ơơp/ là âm gì?
Ông mô tả là âm cao /og/ trong /cog/ “bóc” của vần “ok” có phụ âm tắc thanh hầu (glottal stop), thật ra đó chính là âm ngắn, và /ōg/ trong /kanjōg/ “[gà] gáy” mới là âm dài (đọc khác nhau do sự dài gấp đôi của nguyên âm giữa). Một cặp ngắn dài tạo ra do phụ âm cuối tắc ngạc cứng “k” biến thành tắc thanh hầu “g”. Ông cũng không hiểu được tại sao có poh gak như ông thú nhận: “Chính vì thế, người ta không cần chế biến paoh gak để chỉ định cho «âm trắc [ngắn]» cho một số từ như /jag/ «khôn ngoan», /luk/ «tha tẩm», /cơk/ «núi», v.v. mà Ban Biên Soạn tiếng Chăm đã đề nghị.” (tr. 13). Tại điểm này ông đánh giá các âm đó là ngắn là đúng, nhưng cho rằng BBSSCC đề nghị có poh gak thì chỉ đúng cho /jag/ (đúng 1/3 điểm). Hai trường hợp sau, vì từ /luk/ và /cơk/ chỉ có âm tố cuối là tắc ngạc cứng (palatal stop) /k/. Poh gak là âm tố tắc thanh hầu (glottal stops) /g/ có ở các từ sau: /lag/ “rượu”, /cagag/ “cây sà gạt”, /kalug/ “lõm”, /katōg/ “châu chấu/, /preg kateg/ “chi li”, và /patig/ “bình trà”. Chỉ có “trắc, trầm [ngắn, dài]” chứ không bao giờ là âm “cao”.
III.2.(c) Nhầm lẫn các hiện tượng ngôn ngữ, ngắn dài: Những biểu hiện của sự không nắm vững hiện tượng “trắc trầm [ngắn dài]” do tự ông đưa ra trong ví dụ ở trang 9 và trang 12: trang 9 các âm dài ông viết có baluw, và đọc có dấu biểu thị âm dài bằng gạch ngang trên đầu âm chính rất hay và dễ hiểu. Âm dài còn được mô tả trong phần tiếng Cham cổ điển và AT phổ thông trong trang 6, 7 và 8 đều có dấu ngang trên đầu âm vị. Tuy nhiên trong ví dụ trang 12 ông tự mâu thuẩn và không gạch ngang trên đầu âm chính của từ có âm dài, dù các từ đó đều viết có baluw. Những từ trong trang 12 trở đi âm dài thể hiện phần đọc như âm ngắn, cho thấy ông không nhận diện được hiện tượng ngôn ngữ đâu là ngắn, đâu là dài. Trong Akhar Thrah Latinh của ông, baluw không có giá trị (có và không như nhau). Bạn đọc có thể tự kiểm tra nếu dài thì có dấu ngang trên đầu âm vị (Theo cách của các học giả Pháp và Po Dharma), hay là gấp đôi nguyên âm (theo Can Quang, Graham Thurgood, 2005, Jayam Padra & Jakhwa Cauk, 2009). Do vậy ví dụ trang 12 về “trắc trầm [ngắn dài]” sẽ rõ ràng khi trình bày như sau: Trong AT: “âm trắc [ngắn]” không baluw: /jak/ “khôn”, /luk/ “tha tẩm”, /cek/ “núi”; “âm trầm [dài]” có baluw: /jāk/ “rủ nhau”, /lūk/ “đần độn”, /cēk/ “phách lối”. Po Dharma có lúc không thể hiện sự khác biệt về phát âm âm ngắn, và dài, trong các ví dụ (BẮC BUỘC PHẢI CÓ ÂM VỊ THỂ HIỆN SỰ KHU BIỆT ĐÓ). Viết có baluw, nhưng ông cho đọc như nhau, gây nhầm lẫn cho cả ông và bạn đọc (Pô Dharma, 2007b, tr. 12). Lúc ông cho là ngoại lệ đặc thù của Cham, viết kok nhưng đọc là /kok/, /kōk/, /kog/, và /kōg/ có nghĩa khác nhau, kiểu “jal gak pôc lak”. Thay phụ âm đầu, nguyên âm giữa ta cũng có những cặp, hay bộ ba, bộ bốn tương tự tạo thành hệ thống. Đã là hệ thống thì không còn là ngoại lệ: chính là hệ thống khu biệt nghĩa ngắn dài, mà tổ tiên Cham đã có cách viết phân biệt. Chọn từ nào kiểu viết nào là ngoại lệ???
III.2.(d) Biến âm gây khu biệt nghĩa: HTKL luôn lập đi lập lại “nói sao viết vậy” chứng tỏ không hiểu rõ bản chất vấn đề chuẩn hóa của BBSSCC là gì? Chúng chỉ liên quan đến “trắc trầm [ngắn dài]” là hiện tượng viết giống hoặc khác nhau, phát âm khác nhau và có nghĩa khác nhau. Hiện tượng biến âm phương ngữ (biến thể tự do) rất phổ biến trong Từ Điển Cham Francais AC 1906, một mục từ có nhiều cách viết. Vì chúng không gây khu biệt nghĩa, nên BBSSCC chọn một cách viết đơn giản, phổ thông đã có và những cách viết khác đều được chấp nhận (phụ lục trong SGK tiếng Cham của NXB Giáo Dục).
Về biến âm gây khu biệt nghĩa, dù BBSSCC đã áp dụng triệt để phát hiện của ông: “BALUW DÀNH CHO ÂM TRẦM [DÀI]” có phát âm là /ā/, /ū/, /ưư/, /ơơ/, và /ē/, nhưng Po Dharma không nhận ra điều này và đánh giá cách dùng baluw của BBSSCC như sau đây. Ông viết: “Qui luật dùng baluw trên [vần] ak, uk trong tiếng Chăm cổ điển vẫn còn lưu lại trong akhar thrah hôm nay, ngoại trừ chữ Chăm cải biến của Ban Biên Soạn” (tr. 9). Và: “BBSSCC áp dụng hua baluw một cách tùy tiện mà không đưa ra lời giải thích nào” (tr. 23).
3. Quy trình hội thảo không bình thường:
Quy trình của hội thảo khoa học là tôn trọng tất cả các kết quả của tham luận, dù có tỷ lệ nhỏ khác biệt cũng được ghi nhận để nghiên cứu thêm cho những lần hội thảo tiếp. Hội Thảo Quốc Tế Kuala Lumpur rất khác và lạ. Ý kiến khác biệt từ phía BBSSCC không được lắng nghe. Và biên bản tổng kết hội thảo được “…đa số đại biểu đều nhất trí đưa ra kết luận…” (Kỉ yếu HTKL, 2007, tr. 23) và ký biên bản theo số đông. Kiểu kết luận này giống nghị quyết của kỳ họp một hội đoàn, hay đảng phái hơn là một hội thảo khoa học.
4. Các ý kiến khác biệt không được lắng nghe:
Không lắng nghe cách tiếp cận khác về AT, nguyên nhân AT cần phải chuẩn là do: “bí chữ này đọc chữ khác”, “phần ai nấy viết, chữ ai nấy đọc”. Chuẩn là rút ra từ cách viết trong các văn bản cổ của ba vùng Cham Phan Rang, Phan Rí, và Ma Lâm (Lộ Minh Trại, 2007). Chuẩn hóa là do các trí thức Cham chủ trương, với sự hướng dẫn của chuyên viên ngôn ngữ của Bộ Giáo Dục, và đồng thuận của đồng bào (Nguyễn V. T., 2007). “Sự cải tiến là một quy luật tất yếu của quá trình phát triển của sự vật, kể cả ngôn ngữ chữ viết để phù hợp với thực tế xã hội ngày một phong phú, đa dạng. Cải biến không có nghĩa là phá bỏ, …mà là… làm cho vấn đề được sáng tỏ hơn, chuẩn xác hơn” (Thuận Ngọc Liêm, 2007, tr. 4). Quy luật chuẩn hóa được đại diện BBSSCC mô tả rất chi tiết cách viết ngắn dài các âm /a, u, ư, ơ, e, i và o/, đơn giản, dễ hiểu, nhưng đều bị bỏ ngoài tai và không đưa vào kết luận.
IV. Ngộ nhận của Hội Thảo Luala Lumpur:
Từ những hạn chế trên khiến cho kết luận của Po Dharma và HTKL đầy tính chủ quan, sai lạc. Ông viết: “độc giả có cảm giác rằng BBSSCC đang đóng vai trò «bà bóng lên đồng»: Chỉ cần một đêm suy nghĩ, BBSSCC đã đưa ra bao quyết định cải tiến qui luật chữ viết Chăm,…” (Po, 2007b, tr. 27). “ … đa số là thành viên của BBSSCC không chuyên về chữ viết Cham,… đã biến chữ Chăm thành một chữ viết «lai căng»…  phủ nhận hoàn toàn giá trị tinh hoa của akhar thrah Chăm truyền thống …học tiếng Chăm để họ đọc được chữ viết … của kho tàng văn học akhar thrah Chăm còn lưu trữ lại. Đó mới là mục tiêu quan trọng hàng đầu” (Po, 2007b, Tr. 28). Sai lầm được vô tư và hoành tráng lập lại: “cách viết … biến dạng,.. đa số bô lão và trí thức Cham không đồng tình…” (Po, 2007a, tr. 4). (1) Chế biến, chế tạo, hay không bao giờ có poh gak, (2) croh aw của chữ Cham luôn có dar sa, (3) baluw tùy tiện không theo quy luật nhất định, (4) chữ Cham không thể áp dụng quy luật “nói sao viết vậy” (Po, 2007a, tr.3, 6, 9, 10, 15, 17, 21).
Chính vì hạn chế nêu trên kéo theo kết luận sai lầm về AT. khiến cho bản thân tác giả và HTKL không định nghĩa được AT truyền thống là gì, không thấy được điểm tương đồng và dị biệt của AT truyền thống và AT “chế biến” của BBSSCC. Lúc cho là không phân biệt ngắn dài, lúc phải học thuộc các trường hợp có âm “trầm [dài]” ngoại lệ, lúc “không biết đọc thế nào”.
V. Hậu quả:
Phủ định những giải thích của BBSSCC, HTKL phủ định luôn những việc làm của BBSSCC dù đó là sự thật hiển nhiên, là chân lý tuyệt đối có thể thấy và kiểm tra được. Trong đó có 3 sự thật quyết định sự phá sản của HTKL 2006:
V.1. Hội Thảo Luala Lumpur kết luận sai về ba vần:
HTKL kết luận là không bao giờ có trong AT trước khi BBSSCC ra đời (1978) là: “Akhar Thrah Cham không bao giờ có paoh gak, craoh aw luôn luôn phải có dar tha và không bao giờ có baluw trên dar tha-dar dua.” Sự thật đó là những vần từ các văn bản cổ và có trong từ điển Cham Francaise AC 1906 được chọn làm vần chuẩn. Chính điều này đã giúp Thứ trưởng Đặng Huỳnh Mai, dù không biết chữ Cham AT vẫn đánh giá dễ dàng kết luận của HTKL là sai lầm (vì chúng có mặt trong ấn phẩm Cham trước 1978).
V.2. Ngộ nhận Ông Tỷ và Trại là người chỉnh lý chữ Cham AT:
Trong “30 năm khủng hoảng ngôn ngữ và chữ viết Chăm” trang 127 có khẳng định “Nguyễn Văn Tỷ lại chủ trương cho BBSSCC cải biến trường hợp bất qui tắc trong Akhar Thrah Chăm.” Thật ra ông Tỷ và ông Trại chỉ là người kế thừa thành quả đã xong hơn 16 năm trước HTKL. Là thành quả của 19 thầy giáo hàng đầu của Cham thuộc thế hệ đầu tiên của BBSSCC trong 12 năm trời. Đa số họ đã qua đời. Nay chỉ còn vài cụ như: Lâm Gia Tịnh, Châu Văn Kên, Châu Văn Đỉnh… Những nhà khoa học điều hành HTKL nghĩ đơn giản rằng ông Tỷ, Trại, Liêm ký biên bản rồi thì họ sẽ thay đổi được theo ý muốn chủ quan của HTKL.
V.3. Sự chuẩn hóa AT phải đúng quy trình:
BBSSCC đã theo đúng quy trình chuẩn hóa và được phê duyệt của Hội đồng thẩm định năm 1990. Ông Nguyễn Văn Tỷ đã đề cập rằng nếu muốn thay đổi gì trong chữ Cham AT thì phải đúng quy trình và phải qua xét duyệt của một Hội Đồng Thẩm Định gồm chuyên gia của Bộ Giáo Dục, UBND Tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, và nhân sĩ trí thức Cham. Phương án đề xuất thay đổi đó phải thuyết phục được Hội Đồng, không thì tiếp tục nghiên cứu. HTKL muốn điều chỉnh AT Cham thì phải trình bày “sự thay đổi” cho hội đồng và được họ phê duyệt, chứ không phải ký với nhau trong một Hội Thảo Khoa Học là xong.
V.4. Trên một vạn học sinh Cham học tiếng Cham hằng năm:
Một sự thật nữa lớn và mạnh hơn tất cả là vì tiếng Cham là môn tự chọn. Học sinh có toàn quyền học hay không học những lớp này. Phụ huynh (trên 20 ngàn người) đã biết sự phản đối và lên án của HTKL, có quyền yêu cầu sửa đổi chương trình. Thế nhưng họ vẫn tiếp sức, ủng hộ, và còn yêu cầu đưa AT chuẩn hóa này lên cấp trung học và đại học. Trên một vạn học sinh (bằng tổng dân số Cham tại Malay) hằng năm tham gia 100% các lớp tiếng Cham suốt từ năm 2003 đến nay. Thái độ đó chính là thông điệp: Chúng tôi tin, yêu và quý AT Cham chuẩn hóa.
VI. Kết luận:
Thực chất vấn đề: AT truyền thống có âm ngắn và dài (trắc và trầm theo Po Dharma), là nét khu biệt nghĩa quan trọng. Đa số từ có âm dài AT Cham không được viết phân biệt như khi phát âm. Một số từ có âm dài được viết phân biệt với âm ngắn bằng những takai akhar được cho là “ngoại lệ”. Ngoại lệ có thể là: (1) trên 300 mục từ ngoại lệ như thể hiện trong Từ điển Cham Francais AC 1906 và Từ điển Chàm Việt Pháp GM 1971 cần học thuộc lòng (Quang, 2007); khá đông hiểu ngoại lệ là kiểu “jal di gak pôc lak” là (2) “jal cok, pôc cōk, jal cok, cōk, pôc cog, jal di cok, cōk, cog, pôc cōg” khoảng vài ngàn từ; hay là cả hai. AT chuẩn hóa của BBSSCC triệt để viết phân biệt âm ngắn dài bằng những takai akhar theo một quy luật chặt chẽ dễ học và dễ nhớ. Đó là sự chọn lựa của cả cộng đồng, viết dài ngắn rõ ràng cho chữ Cham tiếng Cham phát triển là một tất yếu lịch sử. Công trình tập thể đồ sộ chuẩn hóa chẳng những không là phá hoại mà còn làm cho AT hợp lý và khá hoàn chỉnh để phát triển đi lên phía trước. Đó là sự kế thừa thông minh tài tình di sản ngôn ngữ Cham. Tuy nhiên AT vẫn luôn mở ngõ để được bổ sung cho không ngừng hoàn thiện cho phù hợp với xã hội thăng tiến. Sự ngộ nhận là phá hoại của vài cá nhân là tự nhiên khi họ thiếu thông tin hay đã có thành kiến, cần được minh định, điền khuyết thông tin hầu hóa giải ngộ nhận và bất đồng.

Thông tin cá nhân:
From: Tiến Sĩ Quảng Đại Cẩn, chuyên ngành giáo dục ngôn ngữ.
Alumni: Trường University of Hawaii of Manoa, Hoa Kỳ.
Địa chỉ liên lạc: 1260 Richard Ln Apt. B510, Honolulu, HI 96819.
Phone: 8082034710 (USA), email: cquang@hawaii.edu

To: Báo cáo xin gửi về:
Văn phòng Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc lần thứ II
Phòng 403, tầng 4, Viện Ngôn ngữ học
Số 9, Kim Mã Thượng, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: 04.37674574       Fax: 04.37674572

Tài liệu tham khảo
Aymonier E. & Cabaton A. (1906). Dictionaire Cam – Francais, L’ecole Francaise D’exttreme-Orient, Volume VII.
Baker, C. (2011). Foundations of bilingual education and bilingualism (5th ed.). In N. H. Hornberger (Ed.). Bilingual Education and Bilingualism. New York: Multilingual Matters Ltd.
Đoàn T. Th. (1977). Ngữ âm tiếng Việt (Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội,
Graham Th. (2005). A preliminary sketch of Phan Rang Cham. In Adelaar, A. & N. Himmelmann (eds). The Auatronesian Languages of Asia and Madagascar. London: Cuzon. 489-512. (2)

Quang D. C. (2007). Khái quát về sự chỉnh lý chữ Cham Akhar Thrah. Tập San Ngoại ngữ - Tin học và Giáo dục số 9, tr. 126- 138, Trường Đại Học Huflit. Trong http://sapcham.blogspot.com/2008/07/khi-qut-v-s-chnh-l-ch-chm-akhar-thrah.html

Harak Champaka 15 (2006). Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử.

Harak Champaka 28. (2008). 30 năm khủng hoảng ngôn ngữ và chữ viết Chăm.
JaYam Padra & JaKhwa Cauk (2009). Panôc dôm kadha doh Cham. Hội dân tộc học Tp Hồ Chí Minh, Chi hội dân tộc Cham
Marilyn, W., & Paul, M. (1996). Teacher education partnerships in Vietnam, Australian Teacher Education Association Conference, University of Melbourne.
Moussay G., Nại Thành Bô, Thiên Sanh Cảnh, Lưu Ngọc Hiến, Đàng Năng Phương, Lưu Quang Sang, Lâm gia Tịnh, & Trượng Văn Tốn. (1971). Từ Điển Chăm - Việt – Pháp, Phanrang.
Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Po Dh. (2007a). Giới Thiệu đại hội ngôn ngữ và chữ viết Chăm 2006. Kỉ yếu Hội Thảo Kuala Lumpur. Kuala Lumpur.
Po Dh. (2007b). Ngôn ngữ và chữ viết Chăm trong quá trình lịch sử. Kỉ yếu Hội Thảo Kuala Lumpur 2006.



[i] Language planning includes, status: institutionalization (e.g. use in local and national government and organization), modernity (e.g. use on television), social networks, and workplace; acquisition: family language reproduction, bilingual education from pre-school to university, adult language learning; corpus: linguistic standardization (i.e. by dictionaries, school, and TV) (Baker, 2011).
[ii] Phần trong dấu [ ] do tác giả bổ sung cho đúng thuật ngữ chuyên môn ngôn ngữ học.